(26)

Thiên Chúa quan phòng

tiếp tục chăm sóc tạo sinh

 

 

H

ôm nay chúng ta tiếp tục bài giáo lý về Việc Quan Phòng thần linh. Bằng việc tạo dựng, Thiên Chúa đã làm cho tất cả mọi sự ở ngoài Ngài hiện hữu từ hư không. Thế nhưng, tác động tạo dựng của Thiên Chúa không dừng lại ở đó. Những gì từ hư không mà có sẽ trở về hư không nếu chúng bị bỏ mặc và không được bảo hữu bởi Hóa Công. Một khi đã dựng nên vũ trụ, Thiên Chúa tiếp tục dựng nên chúng, bằng việc bảo tồn việc hiện hữu của chúng. Việc bảo tồn là một việc tạo dựng liên tục (conservatio est continua creatio).

            Chúng ta có thể nói rằng, nếu hiểu theo một nghĩa tổng quát nhất, thì Việc Quan Phòng thần linh được thể hiện đặc biệt nơi việc “bảo tồn” này, nghĩa là trong việc bảo hữu tất cả những gì đã được hiện hữu từ hư không. Theo nghĩa này thì Việc Quan Phòng là một xác nhận công cuộc tạo dựng một cách liên lỉ và không ngừng, bằng tất cả tầm mức sâu rộng và bao quát của mình. Việc Quan Phòng này bao hàm sự hiện diện liên lỉ không gián đoạn của Thiên Chúa với tư cách Hóa Công nơi toàn thể tạo thành. Đó là một sự hiện diện tiếp tục tạo dựng và tiến vào những chiều sâu thẳm nhất của mọi sự hiện hữu. Việc Quan Phòng này hoạt động ở những chiều sâu thẳm ấy như nguyên nhân đệ nhất của hữu thể và của tác động. Sự hiện diện này của Thiên Chúa tiếp tục thể hiện cùng một ý muốn vĩnh hằng trong việc tạo dựng cũng như trong việc bảo tồn những gì đã được tạo thành. Đó là một ý muốn tuyệt đối và hoàn toàn tối thượng. Bởi ý muốn này, như chính bản tính hoàn thiện xứng hợp một cách tuyệt đối với mình (bonum diffusivum sui), Thiên Chúa tiếp tục cho thấy, vào giây phút tạo dựng nguyên khởi, Ngài ưa chuộng hữu thể hơn là hư không, sự sống hơn là sự chết, “ánh sáng” hơn là “tối tăm” (x.Jn.1:4-5). Tóm lại, đó là một ý muốn ưa chuộng sự thật, sự thiện và sự mỹ của tất cả những gì hiện hữu. Mầu nhiệm Quan Phòng kéo dài, không gián đoạn và bất vãn hồi, phán quyết được chứa đựng trong Sách Khởi Nguyên: “Thiên Chúa thấy rằng tốt lành… rất là tốt lành” (Gn.1:25,31). Phán quyết ấy là một khẳng định vững chắc và không lay chuyển về công cuộc tạo thành.

            Việc khẳng định thiết yếu này không bị ảnh hưởng bởi bất cứ một sự dữ nào xẩy ra do giới hạn vốn có nơi mọi sự trong vũ trụ, hay bởi cái phát sinh, như đã từng xẩy ra trong lịch sử loài người, tương khắc bất hạnh với những gì nguyên thủy “Thiên Chúa thấy rằng tốt lành… rất là tốt lành” (Gn.1:25,31). Việc Quan Phòng thần linh này bao hàm sự nhận biết rằng, trong dự định đời đời của Thiên Chúa, trong đồ án sáng tạo của mình, từ ban đầu sự dữ vốn đã không có chỗ đứng. Thế nhưng, một khi con người vấp phạm và Thiên Chúa cho phép, thì kết cục sự dữ cũng phải lụy thuộc sự lành: “Mọi sự phục vụ kẻ lành” như Thánh Tông Đồ nói (x.Rm.8:28). Tuy nhiên, đây là một vấn đề chúng ta sẽ trở lại sau.

            Sự thật về Việc Quan Phòng thần linh hiện diện trong toàn bộ mạc khải. Thậm chí chúng ta có thể nói rằng Việc Quan Phòng thần linh này hòa nhập với toàn bộ mạc khải, như trong trường hợp về sự thật của việc tạo dựng vậy. Bởi sự hiện diện ấy, Việc Quan Phóng thần linh này đã tạo nên một khởi điểm và là nền tảng cho việc qui chiếu về tất cả những gì Thiên Chúa “bằng nhiều cách khác nhau” đã muốn nói với chúng ta “qua các tiên tri và trong thời sau hết này… qua Con của mình” (Heb.1:1). Cần phải đọc lại sự thật ấy trong cả các bản văn đã được mạc khải trực tiếp tỏ cho thấy, cũng như ở những nơi Sách Thánh đã gián tiếp chứng thực về Việc Quan Phòng thần linh này.

            Việc Quan Phòng thần linh, ngay từ ban đầu, được thấy như là một chân lý đức tin căn bản, theo Huấn Quyền bình thường của Giáo Hội, mặc dầu chỉ có Công Đồng Chung Vaticanô I mới công bố về việc này trong đoạn liên quan đến sự thật về việc tạo dựng ở Hiến Chế Tín Lý Dei Filius. Công Đồng Chung Vaticanô I nhận định: “Tất cả mọi sự Thiên Chúa đã tạo thành thì Ngài bảo tồn và điều khiển bằng Việc Quan Phòng của Ngài ‘một cách quyền năng cho đến tận cùng và cai quản mọi sự đâu vào đó’ (x.Wis.8:1). ‘Tất cả mọi sự phơi trần và hiện lộ trước mắt Ngài’ (x.Heb.4:13), ngay cả những gì sẽ xẩy ra bởi được khơi động theo tự do nơi tạo vật” (DS 3003).

            Đoạn văn ngắn gọn của Công Đồng trên đây sở dĩ được tuyên bố là vì những nhu cầu đặc biệt của thời điểm của mình (thế kỷ 19). Trước hết, Công Đồng muốn xác nhận giáo huấn liên tục của Giáo Hội về Việc Quan Phòng, tiếp đến là xác nhận truyền thống giáo lý không đổi thay liên hệ đến toàn thể sứ điệp của thánh kinh, như được các đoạn Tân Ước và Cựu Ước chứng tỏ trong đoạn văn này. Bằng việc xác nhận giáo huấn liên tục của đức tin Kitô giáo như thế, Công Đồng có ý chống lại các sai lạc của thuyết duy vật và chủ trương vô tư thần vào thời bấy giờ. Duy vật thuyết chối bỏ việc hiện hữu của Thiên Chúa, còn chủ trương vô tư thần lại cho rằng Thiên Chúa không hề quan tâm đến thế giới Ngài đã tạo thành tí nào cả, mặc dù chủ trương này công nhận việc hiện hữu của Thiên Chúa và việc tạo thành thế gian. Chính chủ trương vô tư thần này là những gì trực tiếp tấn công sự thật về Việc Quan Phòng thần linh.

            Việc tách biệt công cuộc tạo dựng khỏi Việc Quan Phòng thần linh, chính yếu là của chủ trương vô tư thần, còn việc hoàn toàn chối bỏ Thiên Chúa thì hợp với thuyết duy vật, mở lối cho duy vật định mệnh thuyết, một thuyết hoàn toàn bao trùm cả nhân loại và lịch sử của con người. Thế là chủ nghĩa duy vật về lý thuyết được biến thành chủ nghĩa duy vật về lịch sử. Trong môi trường đó, sự thật về việc Thiên Chúa hiện hữu, và nhất là về Việc Quan Phòng thần linh, đã làm cho con người cũng như cho niềm tự do của họ trong vũ trụ được bảo đảm một cách vững vàng và dứt khoát. Ngay ở trong Cựu Ước, Sách Thánh đã nói lên sự thật này, khi tỏ ra cho thấy Thiên Chúa như là một Đấng đỡ nâng mạnh mẽ không thể hủy bại: “Tôi kính mến Ngài, Ôi Chúa, là sức mạnh của tôi, Oâi Chúa, là tảng đá của tôi, là chiến lũy cho tôi, là vị giải cứu tôi. Oâi Thiên Chúa, là tảng đá cho tôi nương náu, là khiên thuẫn của tôi, là sừng cứu độ của tôi, là thành lũy cho tôi” (Ps.18:3). Thiên Chúa là một nền tảng bất khả chuyển lay mà con người với toàn hữu thể của mình tựa nương: “Ngài chính là Đấng nắm giữ vận mệnh của tôi” (Ps.16:5).

            Về phần Thiên Chúa, Việc Quan Phòng thần linh là một khẳng định tối thượng cho toàn thể tạo thành, đặc biệt cho đệ nhất tạo sinh là con người. Việc Quan Phòng làm cho thượng quyền của con người trên thế gian được bảo đảm. Như thế không có nghĩa là những ấn định vốn có nơi các định luật thiên nhiên bị hủy bỏ đi. Nhưng chỉ loại trừ duy vật định mệnh thuyết, một chủ trương hạ giá toàn thể việc hiện hữu của con người xuống “lãnh vực tất yếu”, thực tế là hoàn toàn hủy hoại đi “lãnh vực tự do” mà Tạo Hóa, ngược lại, đã định cho con người. Bằng Việc Quan Phòng của mình, Thiên Chúa không bao giờ thôi là Đấng ủng hộ hết mình cho “lãnh vực tự do” này.

            Đức tin vào Việc Quan Phòng thần linh rõ ràng là vẫn gắn liền một cách khít khao với quan niệm căn bản về việc hiện hữu của con người, với ý nghĩa của cuộc sống con người. Con người có thể ngẩng mặt lên nhìn thẳng vào việc hiện hữu của mình bằng một đường lối khác nhau thực sự, khi họ chắc chắn là họ không cậy dựa một cách mù quáng số phận của mình vào tình thương, mà lệ thuộc vào một Đấng là Tạo Hóa và là Cha của mình. Do đó, đức tin vào Việc Quan Phòng thần linh mới được ghi khắc ngay trong những lời đầu tiên trong Kinh Tin Kính của các Tông Đồ: “Tôi tin kính Thiên Chúa là Cha Toàn Năng”. Đức tin này sẽ giải thoát việc hiện hữu của con người khỏi những hình thức của tư tưởng buông xuôi theo định mệnh.

            Theo truyền thống liên tục của giáo huấn Giáo Hội, đặc biệt theo giáo huấn của Công Đồng Chung Vaticanô I, Công Đồng Chung Vaticanô II cũng nhiều lần nói về Việc Quan Phòng thần linh. Bản văn các Hiến Chế của Công Đồng này cho thấy Thiên Chúa là Đấng “chăm sóc tất cả mọi người với tình phụ tử” (Gaudium et Spes, đoạn 24), nhất là “loài người” (Dei Verbum, đoạn 3). Một diễn đạt về việc chăm sóc này được thấy trong “chính lề luật thần linh – một lề luật vĩnh viễn, khách quan và phổ quát, nhờ đó, Thiên Chúa ấn định, điều khiển và cai quản toàn thể vũ trụ và tất cả đường đi nước bước của cộng đồng nhân loại” (Tuyên Ngôn Tự Do Tôn Giáo Dignitatis Humanae, đoạn 3). “Vì con người sẽ không hiện hữu nếu họ không được dựng nên bởi tình yêu Thiên Chúa và được tình yêu của Ngài liên lỉ bảo tồn; và họ không thể sống trọn vẹn theo chân lý, trừ phi họ tự do nhận biết, mến yếu và hiến mình cho Đấng Hóa Công của mình” (Gaudium et Spes, đoạn 19).

           

(Bài Giáo Lý ngày 7 tháng 5 năm 1986)